Cuộc chiến chống quân mông nguyên

      284

Thế kỉ XIII, các bộ lạc du mục (Thát Đát, Tác Ta) bước vào giai đoạn thống nhất, dần hình thành đế quốc Mông Cổ.

Bạn đang xem: Cuộc chiến chống quân mông nguyên

Ngay trong quá trình thống nhất, Mông Cổ đã tổ chức các đạo quân xâm lược, không ngừng bành trướng lãnh thổ. Sau khi đánh chiếm Đại Lí (Vân Nam, Trung Quốc), Mông Cổ ráo riết sửa soạn xâm lược Đại Việt nhằm chiếm đất đai, tạo bàn đạp và thế gọng kìm đánh lên Nam Tống.

Trước âm mưu xâm lược của Mông Cổ, quân dân nhà Trần đã tích cực chuẩn bị kháng chiến. Vùng đất Vĩnh Phúc - với địa hình trải theo các triền sông lớn (sông Lô, sông Hồng) - trở thành vị trí hết sức xung yếu, từ Vân Nam (Trung Quốc) có thể theo ngả sông Hồng, qua vùng đất này trước khi vào kinh đô Thăng Long cũng như tiến sâu vào lãnh thổ Đại Việt. Vì thế, nhà Trần từ sớm đã chú ý phòng ngự, lệnh cho cả nước khẩn trương chuẩn bị đánh giặc. Tháng 10 năm 1257, vua Trần Thái Tông xuống chiếu cho các tướng điều quân thuỷ bộ lên miền biên giới tây bắc. Ngã ba Bạch Hạc nhiều lần được Trần Quốc Tuấn chọn là nơi luyện tập thủy quân. Trần Nhật Duật cũng cho đóng đại bản doanh tại Bạch Hạc, chỉ huy lực lượng quân đội, án ngữ vùng Việt Trì.

Đầu năm 1258, khoảng 3 vạn quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy, theo lưu vực sông Hồng phía tả ngạn và hữu ngạn sông Thao tiến vào Đại Việt. Đường tả ngạn qua vùng đất Hà Tuyên xuống Bạch Hạc (Việt Trì). Đường hữu ngạn qua vùng đất Quy Hoá (Yên Bái, Vĩnh Phúc) cùng xuống Bạch Hạc. Hai đạo quân nhỏ này có nhiệm vụ đi trước thăm dò, dẫn đường. Theo sau là đạo quân khác do con trai của Ngột Lương Hợp Thai là Aju (A Thuật) chỉ huy. Cuối cùng là đạo quân do chính Ngột Lương Hợp Thai trực tiếp cầm đầu.

Tháng 1 năm 1258, hai đạo quân Mông Cổ đi trước cùng đến hội quân ở Bạch Hạc. Sau đó chúng theo đường bộ, định tiến về Thăng Long qua ngả Bình Lệ Nguyên. Tại Bình Lệ Nguyên (huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc), trên sông Cà Lồ, vua Trần Thái Tông đã lập phòng tuyến chặn giặc. Bình Lệ Nguyên chính là trận đầu tiên quân dân Đại Việt đối đầu trực diện với quân Mông Cổ. Tuy nhiên, địa hình Bình Lệ Nguyên lại khá thuận lợi cho kị binh Mông Cổ phát huy sở trường. Vì thế, trận địa của quân dân nhà Trần bị lấn dần. Đạo quân của tướng Lê Tần (Lê Phụ Trần) được lệnh vừa đánh vừa rút.

Trong các trận đánh quân Mông Cổ trên vùng đất Vĩnh Phúc, bên cạnh các đội quân chính quy của triều đình, lực lượng dân binh của các thổ tù, chủ trại địa phương đã góp phần không nhỏ trong việc cản bước quân giặc. Tiêu biểu là các đội quân của Hà Bổng, Hà Đặc.

Tuy nhiên, trước sức mạnh của địch, nhận thấy khó giữ được Thăng Long, để bảo toàn lực lượng, vua tôi nhà Trần quyết định rút lui khỏi kinh thành. Sau khi củng cố lực lượng, ngày 29 tháng 1 năm 1258, quân Đại Việt từ sông Thiên Mạc mở đợt phản công đánh địch tại bến Đông Bộ Đầu (bến sông Hồng cạnh kinh thành Thăng Long). Quân Mông Cổ bị đánh bật khỏi kinh thành Thăng Long, rút chạy theo ngả sông Hồng về Vân Nam.

Khi tàn quân Mông Cổ chạy qua đất Quy Hóa (miền tây Vĩnh Phúc, giáp với Yên Bái), Hà Bổng đã tập hợp dân binh các làng tổ chức mai phục. Chiến thắng của các trận phục kích ở Quy Hóa có ý nghĩa to lớn, góp phần khích lệ, cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân Đại Việt.

Ngày nay, vùng đất Bình Xuyên vẫn còn lưu lại những tên gọi địa danh ghi dấu trận chiến năm 1258. Tại đền thờ một bộ tướng của Hai Bà Trưng ở xã Sơn Lôi (huyện Bình Xuyên) còn đôi câu đối, trong đó có một vế nhắc lại chiến công trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất này: "Trần phá Nguyên binh vạn cổ anh linh lưu bất tử" (Nhà Trần đánh quân Nguyên, anh linh ngàn năm bất diệt).

- Cuộc kháng chiến lần thứ hai năm 1285

Sau thất bại năm 1258, quân Mông Cổ vẫn nuôi dã tâm xâm lược Đại Việt. Năm 1279, Mông Cổ tiêu diệt nhà Tống, Hốt Tất Liệt lên ngôi, thiết lập triều Nguyên.

Xem thêm: Giá Màn Hình S7 Edge Chính Hãng Tp Hcm, Thay Màn Hình Samsung S7 Edge

Triều Nguyên nhiều lần cho sứ giả sang dụ dỗ, đe dọa vua tôi triều đình Đại Việt. Nhà Trần đã khôn khéo đấu tranh, kéo dài thời gian hòa hoãn để chuẩn bị về mọi mặt. Năm 1279, mượn cớ đánh Chiêm Thành, nhà Nguyên âm mưu đưa quân vào Đại Việt. Năm 1282, quân Nguyên do Toa Đô chỉ huy vượt biển đánh Chămpa, để từ đó đánh lên Đại Việt từ phía nam. Cuối tháng 1 năm 1285, 50 vạn quân Nguyên (gồm cả cánh quân đánh Chămpa năm 1282) từ hai hướng Vân Nam và Lạng Sơn vượt biên giới tấn công Đại Việt.

Trong thời gian này, nhà Trần đã mở hội nghi Bình Than (1282) và Diên Hồng (1285), phát động và cổ vũ tinh thần toàn quân, toàn dân tham gia đánh giặc.

Đạo quân Nguyên từ Vân Nam do Nạp Tốc Đạt Đinh thống lĩnh theo lưu vực sông Chảy tiến xuống, bị quân ta do tướng Trần Nhật Duật chỉ huy chặn đánh ở Thu Vật (Yên Bình). Song, do thế giặc mạnh và với phương châm chỉ đánh tiêu hao nhằm cản bước tiến của địch để bảo toàn lực lượng, Trần Nhật Duật rút quân về Bạch Hạc. Tại đây, ông tiếp tục thực hiện chiến thuật trên.

Chiếm được Thăng Long, nhưng quân Nguyên không tiêu diệt được bộ chỉ huy cuộc kháng chiến, lại gặp nhiều khó khăn về lương thực, khí hậu. Ngược lại, quân đội Đại Việt vẫn bảo toàn được lực lượng, tạo thời cơ để tổ chức cuộc phản công chiến lược. Chiến thắng Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương đã buộc Thoát Hoan phải rút quân khỏi kinh thành Thăng Long, theo hướng Lạng Sơn rút quân về nước. Trên đường rút chạy, quân Nguyên tiếp tục bị quân ta chặn đánh, đến mức Thoát Hoan phải chui vào ống đồng mới thoát chết.

Đạo quân do Nạt Tốc Lạt Đinh chỉ huy rút chạy về Vân Nam theo hướng sông Lô, khi qua địa phận Phù Ninh, bị quân Hà Đặc đuổi đánh đến vùng Quảng Nạp (A Lạp). Hà Đặc hi sinh, em Hà Đặc là Hà Chương nhân đêm tối, tiếp tục tập kích vào trại giặc.

- Cuộc kháng chiến lần thứ ba năm 1288

Mặc dù đã hai lần thất bại song quân Nguyên vẫn chưa từ bỏ ý đồ xâm lược nước ta. Để chuẩn bị cho lần viễn chinh thứ ba này, Hốt Tất Liệt đã huy động hàng chục vạn quân, chia làm 3 mũi tiến vào từ 3 phía: Vân Nam, Lạng Sơn, đạo quân thủy do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp vượt biển, qua Quảng Ninh ngược sông Bạch Đằng để vào nội địa.

Ngả sông Hồng, đạo quân Mông Nguyên do Ái Lỗ (A Rục), A Tri và Mông Khu Đai chỉ huy nhiều lần bị quân của Trần Nhật Duật chặn đánh. Trước thế mạnh ban đầu của giặc, Trần Nhật Duật đã chủ động rút quân từ Tuyên Quang về lập phòng tuyến chống địch tại Bạch Hạc. Ngày 11 tháng 12 năm 1287, sau những trận chiến đấu quyết liệt tại Bạch Hạc, Trần Nhật Duật tiếp tục rút lui.

Cũng như hai lần trước, quân Nguyên tràn vào Thăng Long, song không tiêu diệt được bộ chỉ huy cuộc kháng chiến, quân Nguyên hung hãn tấn công xuống Thiên Trường. Do mất toàn bộ đoàn thuyền lương ở Vân Đồn, Thoát Hoan lo thiếu lương thực, sợ bị tiêu diệt, vội vã tính chuyên tháo chạy. Theo đúng dự tính của Trần Hưng Đạo, quân dân Đại Việt đã tổ chức phục kích, đánh tan cánh quân thủy trên sông Bạch Đằng. Hàng vạn quân Mông Nguyên bị tiêu diệt, bị bắt sống, (trong đó có các tướng Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ) thu về hơn 400 chiến thuyền.

Chiến thắng Bạch Đằng đã đập tan mưu đồ xâm lược Đại Việt của quân Mông Nguyên, bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.

Trong ba lần kháng chiến chống Mông Nguyên, trên vùng đất Vĩnh Phúc, hưởng ứng lời kêu gọi của triều đình, đã có nhiều dân người đứng lên, tập hợp và tổ chức dân binh phục kích, tiêu hao nhiều sinh lực địch.

Ngày nay, trên địa bàn Vĩnh Phúc còn truyền tụng những câu chuyện về bảy anh em họ Lỗ, ba ông quận tham gia đánh giặc Nguyên. Thần tích ghi 7 anh em họ Lỗ quê ở xã Bồ Lí, tổng Yên Dương, huyện Tam Dương, gia cảnh nghèo khổ, phải kiếm củi nuôi nhau. Khi nghe tin quân Nguyên xâm lược, liền bỏ nghề kiếm củi, tập hợp dân làng đi đánh giặc, địa bàn hoạt động của họ suốt từ tả ngạn sông Lô đến tả ngạn sông Hồng, từ Bạch Hạc đến Chèm (Hà Nội ngày nay). Sau khi đánh giặc xong, lại trở về quê cũ kiếm củi. Sau bảy anh em được lập đền thờ ở các xã: Đình Thúy, Gẩu, Tích Sơn (thành phố Vĩnh Yên), đình Hướng Đạo, Lai Sơn, Nhân Mĩ, Long Đậu, Láng (huyện Tam Dương).

Sau kháng chiến chống xâm lược Mông Nguyên, trên vùng đất Vĩnh Phúc, dọc các triền sông Lô, sông Hồng - con đường giặc ngoại xâm đã tràn qua, làng xóm bị tàn phá khá nặng nề. Nhân dân Vĩnh Phúc cùng với quân dân cả nước lại bắt tay vào công cuộc khôi phục đất nước, quê hương.